Hội nghị toàn quốc lần thứ hai về nghiên cứu sức khoe sinh sản và sức khỏe tình dục: Từ bằng chứng tới chính sách

Đăng vào 24/01/2018
Hội nghị toàn quốc lần thứ hai về Nghiên cứu sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục tổ chức ngày 11/11/2014 tại Hà Nội.

Tại Hội nghị, Bộ Y tế, Trường Đại học Y tế công cộng và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc nhấn mạnh rằng cần thiết phải tăng cường ứng dụng các nghiên cứu dựa trên bằng chứng để xây dựng các chương trình và chính sách y tế, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản (SKSS/SKTD).
         Tham dự hội nghị có các đại biểu từ Bộ Y tế, các nhà khoa học, các chuyên gia, các nhà quản lý, hoạch định chính sách đến từ các Trường Đại học, các Bệnh viện, Viện nghiên cứu, các cơ quan ở Trung ương và các địa phương trong cả nước, các tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế.

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Việt Tiến nhấn mạnh tăng cường nghiên cứu khoa học, phổ biến và ứng dụng các kết quả nghiên cứu các tiến bộ khoa học, công nghệ góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề đối với công tác Dân số và Chăm sóc sức khỏe sinh sản như: giảm chênh lệch tỷ suất giới tính khi sinh, giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ phá thai và, tăng cường chăm sóc SKSS cho VTN/TN, người cao tuổi và cho các nhóm dân tộc đặc thù (nhiễm HIV, dân tộc thiểu số).

Số liệu từ các cuộc điều tra về dân số cho thấy Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong việc đạt các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), bao gồm cả mục tiêu 5a và 5b. Độ bao phủ của các dịch vụ chăm sóc SKSS/SKTD (bao gồm cả các dịch vụ lồng ghép trong kế hoạch hóa gia đình) đã được mở rộng. Chất lượng dịch vụ bao gồm cả dịch vụ về làm mẹ an toàn và chăm sóc sơ sinh đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch trong tỷ lệ tử vong và bệnh tật giữa các vùng miền và giữa các nhóm dân số khác nhau, đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số. Vẫn còn có sự khác biệt và thiếu công bằng trong tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc SKSS/SKTD có chất lượng giữa các vùng miền khác nhau trên toàn quốc. Một phần ba thanh niên vẫn gặp cản trở trong việc tiếp cận đầy đủ thông tin và dịch vụ về chăm sóc SKSS/SKTD.

Các bài trình bày tại Hội nghị cho thấy toàn cảnh của các nghiên cứu trong lĩnh vực SKSS/SKTD thực hiện trong giai đoạn 2010-2014 ở Việt Nam, thực trạng và những thách thức đối với công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở Việt Nam, định hướng thực hiện chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản ở Việt Nam giai đoạn 2015 -2020. Hội nghị cũng được nghe bài trình bày của các chuyên gia quốc tế về các vấn đề SKSS/SKTD ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các bài học trong bối cảnh Việt Nam cũng như định hướng nghiên cứu trong tương lai. 

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Việt Tiến nhấn mạnh tăng cường nghiên cứu khoa học, phổ biến và ứng dụng các kết quả nghiên cứu các tiến bộ khoa học, công nghệ góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề đối với công tác Dân số và Chăm sóc sức khỏe sinh sản như: giảm chênh lệch tỷ suất giới tính khi sinh, giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ phá thai và, tăng cường chăm sóc SKSS cho VTN/TN, người cao tuổi và cho các nhóm dân tộc đặc thù (nhiễm HIV, dân tộc thiểu số).

Số liệu từ các cuộc điều tra về dân số cho thấy Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong việc đạt các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), bao gồm cả mục tiêu 5a và 5b. Độ bao phủ của các dịch vụ chăm sóc SKSS/SKTD (bao gồm cả các dịch vụ lồng ghép trong kế hoạch hóa gia đình) đã được mở rộng. Chất lượng dịch vụ bao gồm cả dịch vụ về làm mẹ an toàn và chăm sóc sơ sinh đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch trong tỷ lệ tử vong và bệnh tật giữa các vùng miền và giữa các nhóm dân số khác nhau, đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số. Vẫn còn có sự khác biệt và thiếu công bằng trong tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc SKSS/SKTD có chất lượng giữa các vùng miền khác nhau trên toàn quốc. Một phần ba thanh niên vẫn gặp cản trở trong việc tiếp cận đầy đủ thông tin và dịch vụ về chăm sóc SKSS/SKTD.

Các bài trình bày tại Hội nghị cho thấy toàn cảnh của các nghiên cứu trong lĩnh vực SKSS/SKTD thực hiện trong giai đoạn 2010-2014 ở Việt Nam, thực trạng và những thách thức đối với công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở Việt Nam, định hướng thực hiện chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản ở Việt Nam giai đoạn 2015 -2020. Hội nghị cũng được nghe bài trình bày của các chuyên gia quốc tế về các vấn đề SKSS/SKTD ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các bài học trong bối cảnh Việt Nam cũng như định hướng nghiên cứu trong tương lai. 

Trong bài phát biểu khai mạc hội nghị, ông Arthur Erken, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam nhấn mạnh: "Việt Nam là một đất nước nông nghiệp với hơn 90 triệu dân và 54 dân tộc khác nhau. Chính sách đáp ứng được tất cả các nhu cầu của mọi người sẽ không hiệu quả và chúng ta cần phải đảm bảo các nhu cầu khác nhau của tất cả mọi người liên quan đến SKSS/SKTD phải được xem xét và thực hiện. Chính vì vậy, cần thiết phải tiến hành các nghiên cứu xã hội và thực nghiệm để có thể hiểu được tốt hơn về các yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế và cấu trúc xã hội ảnh hưởng thế nào đến phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ SKSS/SKTD".

Kết quả hội nghị sẽ được sử dụng cho việc định hướng các nghiên cứu tới đây về lĩnh vực sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục ở Việt Nam, góp phần đạt được tiếp cận phổ cập chăm sóc sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản vào năm 2015.

Tại hội nghị, Bộ Y tế, Trường Đại học Y tế Công cộng và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cam kết tiếp tục hợp tác chặt chẽ để đảm bảo thành tựu và tính bền vững của hệ thống chăm sóc sức khỏe tình dục và sinh sản ở Việt Nam. Đầu tư cho tiếp cận phổ cập tới các dịch vụ sức khỏe sinh sản là một đầu tư quan trọng vì xã hội khỏe mạnh và tương lai bền vững hơn.


Tin khác

Hội nghị khoa học chuyên ngành Sản phụ khoa và Nhi khoa (12/8/2019)